Với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, nước Nam ta có điều kiện thuận lợi để phát triển cây chè. Từ các loại chè truyền thống cho đến chè mới xây dựng thương hiệu, từ trà mạn đến trà shan tuyết cổ thụ, … đều hấp dẫn người yêu thích thưởng trà khắp thế giới.
1. Thái Nguyên
– Diện tích: hơn 20 nghìn ha
– Các thương hiệu nổi tiếng: Tân Cương, Đồng Hỷ, La Bằng…
– Các giống chè vượt trội: chè Long Vân, Keo Am Tích, Phúc Văn Tiên, Kim Tuyên, Bát Tiên, IR777…
– Câu lạc bộ chè hữu cơ Tân Cương (xóm Nam Thái, xã Tân Cương, TP Thái Nguyên) là đơn vị đầu tiên của cả nước được Tổ chức Hữu cơ quốc tế IFOAM và Tổ chức ICEA (I-ta-li-a) cấp Giấy chứng nhận sản phẩm chè sạch theo tiêu chuẩn châu Âu.
2. Yên Bái
– Chè shan tuyết được xem là một đặc sản của tỉnh Yên Bái, không chỉ được biết đến ở Việt Nam, mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới.
– Chè shan tuyết Suối Giàng thuộc huyện Văn Chấn, nằm ở độ cao từ 1.500 đến 1.800 m so với mực nước biển, khí hậu ôn hòa với hàng chục nghìn cây chè cổ thụ hơn 100 tuổi, có cây đến 300 năm tuổi và là một trong những cây chè lâu năm nhất của thế giới còn sót lại.
– Toàn tỉnh Yên Bái hiện có 3.630 ha chè (đứng thứ 6/18 tỉnh trong cả nước về diện tích chè), phân bố ở 8/9 huyện, thành phố; năng suất bình quân đạt 4,5 tấn/ha, đạt sản lượng hơn 12 nghìn tấn búp tươi/năm. Trong số đó, có hơn 3.000 ha chè shan tuyết, cho sản lượng 75.000 tấn búp tươi mỗi năm, phần lớn được dành để xuất khẩu.
3. Tuyên Quang
– Diện tích gần 7.912 ha chè tập trung ở các huyện Sơn Dương, Yên Sơn và Hàm Yên.
– Chè được xác định là cây trồng mũi nhọn của tỉnh, giúp các hộ dân xóa nghèo bền vững của địa phương và đang được triển khai theo hướng trồng chè sản xuất, chế biến chè đúng kỹ thuật, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
4. Hà Giang
– Là tỉnh có diện tích chè đứng thứ 3 cả nước, với diện tích trên 20.000 ha, chè shan tuyết là cây chủ lực trong phát triển kinh tế nông nghiệp của Hà Giang.
– Chè shan tuyết cổ thụ Hà Giang phân bố ở các địa phương bao quanh dãy núi Tây Côn Lĩnh với độ cao gần 2.500 m; các vùng chè đều mọc tự nhiên và được trồng từ xa xưa, nay phát triển thành cổ thụ, nhiều cây chè có bán kính bằng 2 vòng tay người ôm. Đặc biệt, các vùng chè nguyên liệu lớn đều sinh trưởng trong điều kiện mây phủ quanh năm và có địa thế đẹp, phong cảnh hữu tình; là điểm nhấn thu hút không ít du khách muốn khám phá và trải nghiệm về văn hóa miền núi nói chung và văn hóa chè nói riêng.
5. Sơn La
– Rừng đặc dụng Tà Xùa có tổng diện tích hơn 17.650 ha trải dài trên địa bàn các xã Mường Thải, Suối Tọ (Phù Yên), xã Háng Đồng, Tà Xùa (Bắc Yên). Nằm ở độ cao trên 2.000 m so với mực nước biển, với độ ẩm cao, không khí lạnh và mây mà bao phủ, rừng đặc dụng Tà Xùa mang đậm vẻ hoang sơ với hệ động, thực vật phong phú và nhiều nguồn gen quý hiếm. Rừng chè shan tuyết cổ thụ với diện tích 140.000 ha đang được đồng bào dân tộc Mông bảo vệ. Họ coi đây là “kho báu cổ” giúp mình thoát cảnh nghèo đói, vươn lên làm giàu. Trong số đó, tại bản Bẹ, Tà Xùa, có khoảng 178ha chè shan tuyết tham gia liên kết với doanh nghiệp tạo thành chuỗi sản xuất khép kín. Những búp chè tươi mới thu hái sẽ được đưa vào chuyền chế biến chè đồng bộ, áp dụng quy trình kỹ thuật hiện đại kết hợp với kinh nghiệm thủ công lâu năm của người dân bản địa tạo ra những thành phẩm đạt chất lượng cao, trở thành sản phẩm OCOP 4 sao cấp quốc gia.
6. Phú Thọ – một trong những “cái nôi” ngành chè Việt
– Phú Thọ là vùng đất Trung du với nhiều đồi lớn phù hợp để cây chè phát triển. Ðây là một trong những địa phương có diện tích và sản lượng chè lớn nhất cả nước với hơp 16.000ha chè; năng suất chè đạt 118 tạ/ha; sản lượng đạt hơn 185 nghìn tấn/năm; tỷ lệ diện tích các giống chè mới đạt 75,3%, trong đó, cơ cấu giống phục vụ chế biến chè xanh khoảng 30%.
– Phú Thọ đã hình thành nhiều làng nghề, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp sản xuất, chế biến chè đen, chè xanh bảo đảm chất lượng được thị trường chấp nhận.
– Bên cạnh vùng nguyên liệu chế biến chè đen xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Ấn Ðộ, Trung Quốc, Ðức, Anh, tại Phú Thọ bước đầu hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến chè xanh (trồng bằng các giống LDP1, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên…) ở các huyện: Tân Sơn, Thanh Sơn, Ðoan Hùng, Thanh Ba, Phù Ninh, Hạ Hòa.
7. Chè xứ Nghệ
– Cây chè đã được xác định là một trong 10 cây chủ lực, mang lại giá trị kinh tế, là một trong những mặt hàng xuất khẩu đem lại ngoại tệ cho tỉnh Nghệ An.
– Sản phẩm chè Nghệ An đang dần khẳng định được thương hiệu và có vị trí vững chắc trong ngành chè cả nước cũng như chinh phục được một số thị trường trên thế giới như các nước Trung Đông, EU, ASEAN, Mỹ, Nga…
– Năm 2020, tổng diện tích chè của tỉnh đã đạt 12.000ha, diện tích chè kinh doanh 12.000ha, năng suất 130 tạ/ha, sản lượng búp tươi 156.000 tấn, tương đương 31.200 tấn búp khô, tập trung chủ yếu tại 6 huyện Thanh Chương 5.770ha, Anh Sơn 3.200ha, Con Cuông 1.500ha, Kỳ Sơn 1.000ha, Quỳ Hợp 230ha, Tương Dương 300ha.
– Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn phát triển các giống chè công nghiệp chính là giống LDP1, LDP2, PH1, shan tuyết.
– Về chè đặc sản, tỉnh Nghệ An có gần 500ha chè shan tuyết, trồng độ cao trên 1.200m – 1.500m so với mực nước biển, nơi mây mù phủ quanh năm của vùng Huồi Tụ – Mường Lống, huyện Kỳ Sơn. Ngoài ra, còn có đảo chè Thanh An ở huyện Thanh Chương, vừa là vùng sản xuất chè vừa là vùng du lịch hấp dẫn…
8. Vùng chè Lâm Đồng
– Lâm Đồng là một trong những tỉnh có diện tích trồng chè lớn nhất và lâu đời nhất Việt Nam. Được thiên nhiên ưu đãi, đất đai mầu mỡ, khí hậu thích hợp và đặc biệt có lợi thế là tỉnh nằm ở độ cao 800-1.000m, nên chất lượng chè của Lâm Đồng được khẳng định là ngon, hương thơm, vị ngọt.
– Hiện toàn tỉnh có 25.929 ha chè… Trong đó, diện tích chè đang cho kinh doanh 23.791 ha, hằng năm cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước đạt 183.571 tấn.
– Chè Lâm Đồng đã thành danh từ rất lâu với những thương hiệu nổi tiếng như: Tâm Châu, Lễ Ký, Quốc Thái…
– Lâm Đồng cũng đã góp những sản phẩm có giá trị cao, rất được ưa chuộng như: trà Ô Long, trà xanh, trà đen…
– Tại Lâm Đồng, cây chè được trồng tập trung chủ yếu ở Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh. Ngoài các giống chè bản địa, Lâm Đồng phát triển thêm nhiều giống chè cành từ Đài Loan (Trung Quốc) cho năng suất, chất lượng cao.
9. Các vùng chè khác
Ngoài các vùng chè kể trên, chè sinh trưởng và phát triển phân bố không đồng đều ở nhiều địa phương khác nhau, chủ yếu với 3 loại địa hình: cây chè vườn, chè trung dung và chè cổ thụ tại các vùng núi cao.
Có thể kể tới một số địa phương có trồng chè vườn, giống chè Trung du như: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Bình Định, …
Và rải rác nhiều vùng chè shan cổ quý hiếm tại các tỉnh miền núi cao phía Bắc như: Lai Châu, Điện Biên, …. được các nhà khoa học đánh giá có nội chất mạnh mẽ, tốt cho sức khỏe, thành phẩm tốt cả hương, vị. Tuy nhiên, do vùng chè không tập trung nên khó hình thành một vùng chè có quy mô lớn.
Không biết trà hữu đánh giá thế nào, còn Trạm thì thấy tự hào vô cùng với các Vùng chè Việt Nam, thiên nhiên đất nước con người Việt Nam, đều tươi đẹp vô cùng!
Amanda Parker
Leave a reply